Du lịch Bắc Hà, Lào Cai, tổng quan chia sẻ các điểm thăm quan

Du lịch Bắc Hà

Có ai đó đã từng ví rằng, Sa Pa và Bắc Hà là hai “nàng công chúa sinh đôi”, thân thiết với nhau từ khi lọt lòng mẹ. Cả hai lớn lên đều mang vẻ đẹp thuần khiết của núi rừng. Du lịch Bắc Hà, Lào Cai thông tin chia sẻ tổng quan nơi đây

Tuy nhiên, Sapa may mắn hơn khi sớm được khám phá và được nhiều người biết tới vẻ đẹp kỳ vĩ đầy mê hoặc từ hàng trăm năm trước. Còn nàng Bắc Hà vẫn thiếp ngủ trong rừng cấm, cheo leo, chênh vênh trên vùng núi đá hiểm trở, vẫn giữ trọn trong mình nét hoang sơ, vẫn bí ẩn chất chứa những huyền thoại về cảnh vật, con người và về một thời “cao nguyên trắng”.

Du lịch Bắc Hà, Lào Cai

Cái tên Bắc Hà xuất phát từ cụm từ tiếng Tày “Pạc ha” nghĩa là “trăm bó gianh”. Ngoài ra Bắc Hà còn được ví với cái tên “cao nguyên trắng”, bởi vì trong những năm 1985 – 1986 trở về trước , khu vực này trồng loại cây gây nghiện như anh túc, cần sa với diện tích rất lớn. Cho đến năm 1993, Nhà nước tập trung vận động nhân dân bỏ trồng cây thuốc phiện đồng thời triển khai dự án trồng mận để thay thế. Hằng năm, vào mỗi dịp xuân về, Bắc Hà lại chìm ngập trong màu trắng của hoa mận, và cái tên “cao nguyên trắng” bắt nguồn từ đó.

Những địa điểm du lịch Bắc Hà, Lào Cai

Chợ phiên Bắc Hà

Chợ Phiên Bắc Hà (họp vào chủ nhật hàng tuần) chủ yếu là nơi trao đổi mua bán của bà con dân tộc thiểu số thuộc các bản, làng lân cận. Người dân kéo nhau về thị trấn Bắc Hà để họp chợ với muôn vàn mặt hàng khác nhau. Tại phiên chợ, bạn không chỉ tìm thấy những món đồ khác lạ của người dân tộc mà còn được thưởng thức đặc sản vùng cao, như thắng cố, rượu ngô, rượu thóc hay trà hoa tam thất…

Nhìn ngắm từ trên cao, phiên chợ Bắc Hà mang vẻ đẹp độc đáo với những sắc màu rực rỡ từ trang phục của đồng bào các dân tộc nổi bật cả một vùng, tựa như vườn hoa đang đua nở. Thời xa xưa, chợ phiên được mở trên một đồi thoải. Nhưng ngày nay, chợ đã được xây dựng khang trang và phân thành 4 khu vực, gồm khu bán đồ thổ cẩm; khu bán đồ tạp hóa, trang sức; khu bán gia súc và khu hàng ăn. Trong đó, tấp nập nhất phải kể đến những gian hàng bán đồ thổ cẩm và khu ăn uống tấp nập người vào ra.

Nếu đã đến chợ phiên Bắc Hà, chắc chắn bạn không thể bỏ qua món thắng cố, món ăn được coi là nổi tiếng nhất ở đây. Thắng cố hay còn gọi là Khấu Tha có nghĩa là “canh thịt”, được nấu từ nhiều loại thịt khác nhau, nhưng ngon nhất là thịt ngựa. Thịt được ướp với gia vị truyền thống, như thảo quả, địa điền, muối hạt… rồi đem xào nấu trên chiếc chảo lớn. Thịt được ninh trong nhiều giờ đến khi chín nhừ, hòa quyện với các gia vị, tạo nên hương thơm ngào ngạt, hấp dẫn.

Dinh thự Hoàng A Tưởng (Dinh vua Mèo)

Khởi công năm 1914, song đến năm 1921, dinh Vua Mèo mới được hoàn thành. Chủ nhân của dinh là cha con Hoàng Yến Chao, Hoàng A Tưởng. Hoàng A Tưởng cũng là một thổ ti ở Bắc Hà cho đến ngày Lào Cai được giải phóng. Vì thế, ngoài cái tên dinh vua Mèo, người ta còn gọi đây là dinh Hoàng A Tưởng.

Tương truyền, dinh thự vua Mèo Hoàng A Tưởng đươc thầy Tàu về xem thế đất theo phong thủy. Dinh tọa lạc trên một quả đồi rộng ở châu Bắc Hà, nay là trung tâm thị trấn huyện Bắc Hà, phía sau và hai bên đều có núi, phía trước có một dòng suối uốn lượn và có núi thế mẹ bồng con. Thế đất “tựa sơn đạp thủy” vững chãi, với mong muốn dòng họ được quyền quý, con cháu đời sau vinh hiển. Khu dịnh thự vua Mèo đã đạt đến trình độ thiết kế tinh xảo và nổi lên với quy mô đồ sộ tại vùng núi cao xa xôi, hùng vĩ như Bắc Hà.

Khu dinh thự vua Mèo là một kết cấu kiến trúc khá đặc biệt so với kiến trúc các dinh thự khác tại Việt Nam thời bấy giờ. Dinh vừa là nơi để ở của cha con Hoàng Yến Chao, Hoàng A Tưởng, song cũng là nơi làm việc và còn có chức năng pháo đài bảo vệ.

Toàn bộ dinh có kiến trúc hình chữ nhật liên hoàn khép kín, với tổng diện tích 4.000m2, có tường rào bảo vệ, bốn phía tường đều có lỗ châu mai như pháo đài và có lính canh giữ. Dinh được hai kiến trúc sư người Pháp và người Trung Quốc thiết kế. Vì vậy, kiến trúc của dinh có sự hòa quyện giữa kiến trúc Pháp hồi thế kỉ 17-18 và kiến trúc phương Đông. Trong đó nổi lên là các nét kiến trúc phương Tây được thể hiện trong những chi tiết như họa tiết cành nguyệt quế đắp nổi trên các cửa vào, biểu tượng cho hạnh phúc và thịnh vượng; cửa lan can trổ ra hình vòm, cột nhà thanh thoát, lan can, cầu thang vòng, hành lang lát gạch.

Kết cấu bên trong của dinh khá đẹp. Qua cửa chính, bên trong là một khu sân rộng, xưa là nơi diễn ra các hoạt động chính của nhà thổ ti. Khu nhà chính phía cuối sân, có hai tầng với diện tích 420m2, thường là nơi hội họp của gia đình. Ngoài ra, khu dinh còn có các hạng mục khác như hai dãy nhà phụ ở hai bên, mỗi dãy nhà có hai tầng thấp hơn dãy nhà chính, gồm ba gian với diện tích 300m2. Đây là nơi sinh hoạt của các bà vợ Hoàng Yến Chao và Hoàng A Tưởng.

Ngoài ra còn có thêm hai dãy nhà phụ hai tầng có kiến trúc đơn giản hơn dùng làm nơi ở cho quân lính, phu phen và người hầu. Dinh thự nhà họ Hoàng được xây dựng bằng đá vôi, cát, mật mía ở địa phương và ximăng, sắt thép chở từ Hà Nội và Lào Cai lên.

Dinh vua Mèo, một công trình pha trộn giữa kiến trúc của nhà cổ của người Pháp với kiến trúc phương Đông, song nổi trội hơn cả là kiến trúc phương Tây đã tạo cho dinh có vẻ đẹp riêng và nay trở thành địa chỉ du lịch không thể thiếu đối với du khách mỗi khi ghé thăm vùng cao nguyên Bắc Hà

Thung lũng hoa Thải Giàng Phố

Cách trung tâm Bắc Hà khoảng 1,5km, thung lũng hoa Thải Giàng Phố do một đơn vị tư nhân đầu tư xây dựng để phát triển cùng với hình thức du lịch sinh thái. Thải Giàng Phố mùa nào cũng có hoa nở, xuyên suốt cả 4 mùa là hoa phong lan. Bên cạnh đó, ở đây còn được trồng rất nhiều loại hoa đường phố như cẩm tú cầu, tử la lan, cát tường, dạ yến ngọc thảo… Hai loại màu gắn kết tạo nên vẻ đẹp sặc sỡ cho Thải Giàng Phố là màu tím của oải hương và màu xanh vàng tươi của các loài lan.

Tam giác mạch ở Bắc Hà

Đã từ nhiều năm nay, hoa tam giác mạch không còn chỉ là “đặc sản” của vùng cao nguyên đá Hà Giang nữa. Nắm bắt được nhu cầu của khách du lịch, rất nhiều nơi ở vùng cao Tây và Đông Bắc đã trồng và biến tam giác mạch thành một sản phẩm du lịch của địa phương. Bắc Hà cũng vậy, để phát triển du lịch Bắc Hà đã tiến hành trồng khá nhiều cây tam giác mạch ở các điểm như Pờ Chồ 2 (xã Lầu Thí Ngài), Sân Bay 2 (xã Thải Giàng Phố) và Lả Dì Thang (xã Tả Van Chư).

Khác với các địa phương khác, tam giác mạch ở Bắc Hà thường được trồng để kịp nở vào các dịp nghỉ lễ dài như 30-4, lễ hội đua ngựa Bắc Hà vào đầu tháng 6 và dịp nghỉ lễ Quốc khánh 2/9.

Bản Phố

Là nơi sản sinh ra loại rượu Ngô mang lại danh tiếng cho Bắc Hà, bản Phố là một bản của người Mông nằm cách Bắc Hà khoảng 4km. Nếu ai đến thăm Bắc Hà, Lào Cai, xin dành thời gian ghé thăm vùng đồng bào dân tộc Mông ở Bản Phố. Tại đây, bạn không chỉ được chiêm ngưỡng rừng mận tam hoa, đào đang chín đỏ, được thả mình nghỉ dưỡng, tận hưởng khí hậu mát mẻ, trong lành mà còn được thưởng thức hương vị ẩm thực vùng cao, tìm hiểu đời sống văn hóa dân tộc Mông qua việc thăm làng nghề nấu rượu ngô đặc sản Bản Phố.

Thắng cảnh Hang Tiên – vịnh Hạ Long thu nhỏ trên núi

Ngược dòng sông Chảy khoảng 6 km, từ trung tâm xã Bảo Nhai (huyện Bắc Hà) thuyền sẽ đưa bạn qua thành cổ Trung Đô với nhiều huyền thoại. Dòng sông Chảy đến đây thắt lại tạo thành dòng sâu, hiền hoà, len lỏi giữa hai bờ vách thành dựng đứng. Hai bên là cánh rừng nguyên sinh, phủ lên cảnh quan một miền khí hậu trong lành mát mẻ. Những dòng suối nhỏ từ trên cao đổ xuống như dải lụa, mở ảo, lất phất như mưa bay. Dòng nước như người thợ điêu khắc, lành nghề đục vào vách đá tạo nên những đài sen nổi, những nhũ đá muôn hình vạn dạng. Kia là chú voi đang cúi đầu uống nước, đây là con đại bàng cất cánh bay lên… và hội tụ lại thành bồn tắm thiên nhiên kỳ thú. Nơi đây chính là suối Tiên. Qua suối Tiên 200 m là gặp hang lớn có sức chứa cả trăm người, cảm giác như một mê cung kỳ vỹ do thiên nhiên ban tặng, đã xếp thành tầng, thành lớp, tạo những rào luỹ tự nhiên. Ngược lên khoảng 500m là dòng nước nhỏ tí tách tạo thành nhũ đã như những tháp cổ to nhỏ với ánh sáng hiếm hoi hắt vào lấp lánh như ánh lân tinh.

Nhiều khi phải đeo mình vào bờ đá, bám vào các rễ cây mới tới đường lên trời, du khách thấy mình thực sự được trải qua cuộc thăm viếng động Tiên. Sau thời gian du ngoạn, ta được tắm mình trong ánh nắng nơi đảo hoa, một hòn đảo nhỏ đầy hoa thơm cỏ lạ, sóng nước vỗ về dập dình bên bờ đá.

Hang Tiên gắn liền với huyền thoại ba nàng tiên; truyền khẩu rằng xưa kia có ba nàng tiên được vua cha cho đi thăm thú cõi trần gian, thây nơi đây sơn thuỷ hữu tình, các nàng không muốn trở về. Đã hết hạn, không thấy con về, ngọc hoàng nổi giận sai thiên lôi xuống trị tội. Ba nàng chốn trong hang cao hơn mặt nước khoảng 200m ngự trên vách thành do không chấp hành chiếu chỉ, thiên lôi nổi giận giẫm sạt một góc núi nơi ba nàng tiên trú ngụ. Biết không thoát khỏi trừng phạt, ba nàng đã gieo mình tự vẫn. Xác ngược dòng nước dìu xuống hạ lưu nơi trung tâm xã Bảo Nai hiện nay được dân làng vớt lên làm miếu thờ mang tên miếu Ba Cô. Tục truyền rất thiêng. Truyện kể từ xa xưa có một nàng người Nùng tới hang Tiên, thấy nơi đây có ba chén tiên không biết ai đó đặt thờ. Nhiều du khách viếng thăm, vãn cảnh tắm suối Tiên đắm mình trong ánh ban mai bên đảo hoa và đều cầu mong các nàng ban phúc cho sắc đẹp, sức dai và phú quý. Nơi đây thực sự là một vịnh Hạ Long thu nhỏ, thắng cảnh hang tiên đang chờ đón du khách.

Đền Bắc Hà 

Đền Bắc Hà được xây dựng từ cuối thế kỷ 19 thờ phụng hai anh em Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật – người gốc Gia Lộc – Hải Dương. Xưa kia hai ông lên động Ngọc Uyển (vùng Bắc Hà ngày nay) xây dựng căn cứ quân sự và ổn định đời sống dân cư cả một vùng biên giới rộng lớn. Sách sử có ghi: “Đời vua Tự Đức năm thứ 7(1855) sắc phong các chúa Bầu (anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật) làm quốc công hùng cứ Bắc Hà, làm cho vùng đất này trở thành trù phú, dân cư đông đúc”. Sử nhà Nguyễn chép “Uy thế nhà Lê nổi là nhờ sức của anh em họ Vũ đã có công đánh giặc, bờ cõi được yên, nhân dân an lạc”. Nhà Nguyễn cũng sắc phong anh linh các chúa Bầu làm tổng binh trấn thủ Tuyên Quang. Năm Gia Long thứ nhất xét công bách thần cả nước, quốc công Vũ Văn Mật được liệt vào hàng công thần đời Lê Trung Hưng. Để tưởng nhớ người anh hùng đã có công với vùng đất này, nhân dân nơi đây đã cùng nhau xây dựng lên ngôi đền này để hàng năm tưởng nhớ về người anh hùng đã có công với nước, một thời bình ổn vùng biên giới phía Tây Bắc của Tổ Quốc ta.

Đền Bắc Hà có một ý nghĩa lịch sử sâu sắc và có tầm ảnh hưởng đến đời sống chính trị, văn hóa xã hội đối với nhân dân các dân tộc tỉnh Lào Cai vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Lễ hội chính đền Bắc Hà được tổ chức hàng năm vào ngày 7/7 (âm lịch) tại đền ngay thị trấn Bắc Hà, để tưởng nhớ ngày mất Gia quốc công Vũ Văn Uyên, người đã có công dẹp loạn an dân, hùng cứ vùng Tây Bắc thế kỷ 16-17. Từ đó đến nay ngôi đền là nơi để nhân dân trong vùng và du khách thập phương ngưỡng vọng người có công với dân với nước.

 

Cẩm nang du lịch khám phá “cao nguyên trắng”

Nên đi du lịch Bắc Hà vào thời gian nào?

Tùy theo sở thích khám phá, các bạn có thể du hí Bắc Hà theo những mốc thời gian sau:

  • – Vào mùa xuân, trước và sau Tết Âm lịch là mùa của hoa mận nở.
  • – Lễ hội Đua ngựa Bắc Hà theo thông lệ được tổ chức vào đầu tháng 6 hàng năm sau khi mận đã chín.
  • – Lễ hội rước Đất rước Nước vào ngày 15 tháng giêng hàng năm.
  • – Chợ phiên Bắc Hà diễn ra vào chủ nhật hàng tuần.
  • – Lễ hội đền Bắc Hà vào ngày 7/7 âm lịch hàng năm

Phương tiện di chuyển

Đi từ Hà Nội

Bắc Hà Cách Lào Cai khoảng 70km theo hướng từ Lào Cai về Hà Nội, và cách Hà Nội khoảng 300km nên để đến Bắc Hà bằng ô tô các bạn có 2 sự lựa chọn Bắt xe đi Bắc Hà trực tiếp từ Hà Nội, các xe này sẽ xuất phát từ bến xe Mỹ Đình.

Hiện đang có 2 nhà xe khai thác tuyến này là Hải Vân và Sao Mai, nhà xe Sao Mai có xuất phát cả từ Hải Phòng nên các bạn cũng có thể đi trực tiếp Hải Phòng – Bắc Hà. Các bạn có thể tìm thấy thông tin liên hệ của 2 nhà xe này trong bài viết Xe khách chất lượng cao đi Bắc Hà Đi từ Hà Nội lên Lào Cai rồi từ Lào Cai đi Bắc Hà, để đi từ Hà Nội lên Lào Cai các bạn có thể thêm lựa chọn đi bằng tàu hỏa.

Từ Bến xe Lào Cai hàng ngày có rất nhiều chuyến xe đi Bắc Hà, thường các xe này khởi hành từ sáng cho đến khoảng 3h chiều nên các bạn thoải mái lựa chọn thời gian cho phù hợp.

Đi lại tại Bắc Hà

Bắc Hà khá nhỏ nên các bạn hoàn toàn có thể khám phá Bắc Hà bằng xe máy. Bạn có thể thuê xe ôm chở đến các địa điểm du lịch Bắc Hà hoặc thuê xe máy tại Bắc Hà để tự khám phá những địa điểm đó. Trong một số trường hợp, nếu các bạn muốn kết hợp đi Bắc Hà rồi đi một vài địa điểm du lịch khác ở Lào Cai như Si Ma Cai, Y Tý hay Sa Pa thì các bạn nên chủ động mang xe máy theo. Xe máy có thể gửi bằng tàu hỏa tới ga Lào Cai rồi từ Lào Cai các bạn đi tới Bắc Hà bằng phương tiện của mình. – Đi từ Bắc Hà đi Sapa Từ Bến xe Bắc Hà các bạn có thể tìm xe đi Sa Pa hoặc xe đi Lào Cai (rồi nối chuyến đi tiếp Sa Pa). Phương án này dành cho các bạn muốn đi du lịch Bắc Hà và Sa Pa trong cùng một chuyến đi và không mang theo phương tiện cá nhân.

Lưu trú tại Bắc Hà

Khách sạn nhà nghỉ tại Bắc Hà Trên địa bàn huyện Bắc Hà hiện có khoảng 50 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó 23 khách sạn, nhà nghỉ với gần 350 phòng và 26 hộ kinh doanh lưu trú tại gia (homestay) ở các xã, thị trấn (mỗi hộ đón tiếp tối đa từ 10 – 20 lượt khách/ngày).

Bên cạnh đó, tại thị trấn Bắc Hà còn có 24 nhà hàng, cơ bản có thể đáp ứng được nhu cầu nghỉ, ăn uống của khoảng 2000 khách. – Homestay ở Bắc Hà Những năm gần đây, homestay là một trong những loại hình du lịch phát triển mạnh tại Bắc Hà với gần 30 nhà nghỉ homestay, tập trung chủ yếu tại thôn Bản Phố (Bản Phố), thôn Na Lo (Tà Chải), thôn Trung Đô (Bảo Nhai), thôn Na Hối Tày và thôn Na Hối Nùng (Na Hối).

 

Các món ăn ngon và đặc sản Bắc Hà

Phở chua Bắc Hà

Phở truyền thống Bắc Hà gồm có phở chua, phở trộn và phở chan với nhiều nguyên liệu dùng chung, trong đó, phở chua nổi tiếng hơn cả và hầu như không “đụng hàng” ở bất kỳ đâu. Bánh phở đã tạo nên một sự khác biệt rất lớn không thể lẫn giữa Bắc Hà với các địa phương khác.

Bánh phở ở đây không có màu trắng như thường thấy mà hơi nâu nâu, do được tráng từ loại gạo đỏ đặc biệt của địa phương, trồng ở xã Lùng Phình. Với phở chua, yếu tố quyết định vị ngon chính là nước chua. Theo truyền thống, nước chua được làm từ việc ngâm, trộn rau cải với nước đường và chắt lọc được nước chua.

Đây là cả một quy trình khắt khe, mà chất lượng của nước chua phụ thuộc rất lớn vào tay nghề của người làm. Ngày nay, nước chua được làm đơn giản hơn với nước giấm hoa quả nấu theo tỷ lệ nhất định. Một bát phở chua gồm có bánh phở mới tráng còn ấm nóng, thịt lợn xá xíu, rau sống thái nhỏ, lạc và cuối cùng chan một ít nước chua.

Trước khi ăn, bạn nên bỏ thêm một ít muối hạt vì phở chua sẽ hơi nhạt so với khẩu vị chung của mọi người. Phở chua phải ăn lạnh mới ngon, nên thích hợp ăn vào mùa hè. Mùa đông đến Bắc Hà bạn có thể gặp khó khăn khi muốn tìm món này vì nhiều hàng không bán phở chua.

Thắng cố Bắc Hà

Thắng cố là món ăn đặc trưng truyền thống của người H’mông, về sau được du nhập sang các dân tộc Kinh, Dao, Tày. Thịt nấu thắng cố theo truyền thống là thịt ngựa, về sau có thêm thịt bò, thịt trâu, thịt lợn. Món thắng cố ngựa ra đời từ cách đây gần 200 năm khi người Mông, Tày, Nùng về Bắc Hà cư trú.

Tuy nhiên chỉ từ khi du lịch Bắc Hà phát triển mới được nhiều du khách biết tới. Ngày xưa cách chế biến thắng cố tương đối khác so với ngày nay. Xưa kia tất cả thịt và nội tạng ngựa được làm sạch sẽ rồi cho vào chảo luộc chín, thái vuông. Sau đó người ta cho thịt vào chảo rồi cho các loại gia vị vào.

Tiết ngựa cũng được luộc chín đặt lên bên trên nồi thịt rồi cho nước xâm xấp vào hầm nhừ. Ngày nay sau khi mổ ngựa, làm sạch sẽ, tất cả thịt và lục phủ ngũ tạng của con ngựa sẽ được ướp gia vị. Thời gian ướp khoảng 15-30 phút là được. Gia vị truyền thống để chế biến gồm muối, thảo quả, địa điền, quế, lá chanh nướng thơm, tán nhỏ. Sau khi xào chín cho nước vào hầm nhừ.

Thắng cố khi ăn được múc ra từng bát nhỏ, ăn kèm với rau sống cùng 1 chén rượu ngô Bắc Hà Khi ăn thắng cố, chảo thịt vẫn đặt trên bếp đun, ăn đến đâu múc ra bát đến đó, có thể cho thêm ớt xào Bắc Hà vào để thêm vị cay.

Nhấp chén rượu ngô Bản Phố cay nồng, gắp miếng thịt ngựa đã được hầm nhừ cho vào miệng, vị ngọt mềm của thịt ngựa kết hợp vị cay của ớt Bắc Hà, vi thơm ngai ngái của gia vị thắng cố sẽ tạo nên một mùi vị rất đặc trưng mà không món ăn nào có được.

Xôi 7 màu của người Nùng Dín

Là món ăn chỉ có trong những ngày lễ tết, xôi bảy màu của người Nùng Dín ngoài giá trị ẩm thực còn mang giá trị tâm linh sâu sắc. Mỗi màu xôi là màu của một tháng trong cuộc chiến diễn ra từ tháng 1 đến tháng 7 năm xưa tại nơi đây. Màu xanh lá chuối là màu của mùa xuân, màu đỏ thẫm, biểu tượng cho máu của những người đã anh dũng hi sinh, màu vàng biểu tượng cho sự đau thương li tán, màu đỏ tươi biểu tượng cho chiến thắng hào hùng của người Nùng Dín… Điều đặc biệt làm nên sự khác lạ của món xôi này chính là ở bản hợp tấu tài tình của màu sắc mà chỉ có những người phụ nữ khéo léo Nùng Dín mới có thể tạo ra. Không dung bất cứ một thứ phẩm màu cao cấp nào, chỉ tận dụng những lá cây rừng có sắn như lá cây đỏ đen, cây hoa vàng, lá câm hoa hay nghệ nhưng những người phụ nữ nơi đây bằng bí quyết gia truyền đã tạo ra một món ăn sinh động hấp dẫn mà không phải người đầu bếp nào cũng có thể làm được.

Cốm Bắc Hà

Cốm Bắc Hà được làm từ loại thóc nếp được trồng trên nương đồi núi cao biệt lập cách xa lúa tẻ dùng làm cốm nếp có hương vị thơm ngon núi rừng. Cùng với nghề làm cốm truyền thống của người Tày Bắc Hà càng làm thêm hương vị món cốm ngon hơn.

Đặc biệt cốm Bắc Hà không sử dụng phẩm màu và chất bảo quản. Cốm ăn trực tiếp, ăn với quả chuối hoặc chế biến thành chè cốm, bánh cốm, chả cốm, cháo cốm….tùy khẩu vị.

Bánh dày Bắc Hà

Bánh dày là món ăn đặc sản, hương vị Tết riêng của người Mông ở Bắc Hà. Bánh dày làm công phu nhưng để được rất lâu, ở Bắc hà có khí hậu mát mẻ nên có thể để bánh dày hàng tháng trời. Bánh dày có thể mang đem rán nhưng ngon nhất là mang bánh dày nướng trên bếp than hồng, khi chin, bánh phồng lên, màu ngả vàng, tỏa ra mùi thơm ngây ngất hương vị vùng cao.

Mèn mén Bắc Hà

Sau vụ thu hoạch ngô được phân loại, phơi khô cả vỏ đưa lên gác xép, xếp thành hàng, để dùng dần. Ngô được tẽ ra, quạt sạch rồi say nhỏ bằng cối đá. Xay ngô đòi hỏi sự công phu và tốn thời gian. Khi xay phải có hai người, một người kéo tràng, một người đứng bỏ hạt.

Ngô xay ra đảm bảo nhỏ hơn hạt tấm, đều để dễ đồ. Khi đồ cho bột ngô vào chõ, rắc đều một chút nước đậy kín, đặt lên chảo nước rồi đun chờ có mùi thơm toả ra là cơm chín. Cẩn thận hơn, người ta làm đồ hai lượt. Lượt thứ nhất chưa chín hẳn. Đổ ra xảo, đánh tơi, chờ nguội bớt, rồi rẩy chút nước, cho lại vào chõ đồ lượt thứ hai.

Cơm bột ngô háp người ta quen gọi là mèn mén. Bánh đúc ngô Bắc Hà Lên chợ Bắc Hà ngày xuân, du khách sẽ được thưởng thức món bánh đúc ngô dân dã được đặt trong những chiếc chậu lớn. Khi có khách, người bán mới cắt thành từng miếng nhỏ, vừa ăn, thơm thơm vị ngô rất thú vị.

Gà nướng mắc khén Bắc Hà

Không giống những món gà nướng thông thường khác, gà nướng mắc khén là một món ăn khá mới nhưng rất được thực khách ưa chuộng khi đến Bắc Hà, Lào Cai bởi độ thơm của gia vị và độ ngọt của thịt gà. Loại gà ngon nhất được lựa chọn là gà đồi khoảng 1 – 1,5 kg không quá non nhưng cũng ko già để thịt gà mềm và ngọt.

Gia vị được dùng để nướng cũng khá đặc biệt, gồm hạt mắc khén dã nhỏ trộn lẫn ớt, rau thơm, muối, lá chanh, gừng, sả… và một số gia vi khác được sát lên da bên ngoài con gà để thịt được đậm và thơm hơn. Cuối cùng gà được bọc trong một lớp lá chuối, sau đó lấy than phủ lên giữ nhiệt độ luôn nóng khoảng 30 phút là gà chín.

Loại gia vị chấm thích hợp nhất với món gà nướng là hạt mắc khén dã nhỏ trộn với muốn, ớt, rau thơm dã nhỏ cộng thêm một chút nước gà

Rau củ khởi

Đây không chỉ là loại rau mà còn là một vị thuốc quý trong Đông y chỉ có vào mùa thu (tháng 9-10). Loại rau mọc dại trong tự nhiên nhưng có tác dụng giải nhiệt, giải độc vô cùng hiệu quả. Cây củ khởi thân nhỏ, cao từ 50cm đến 150cm, cành nhỏ, uốn cong cần câu, thỉnh thoảng có gai ngắn mọc ở kẽ lá. Lá mọc so le, có khi mọc vòng, phiến lá nhỏ hình mũi mác, cuống ngắn.

Chó Bắc Hà

Chó Bắc Hà từ lâu vốn nổi tiếng như một đặc sản từ Bắc Hà của những người yêu chó. Tất nhiên, món đặc sản này chỉ để nuôi chứ không để ăn nhé! Chó có nguồn gốc ở Bắc Hà được coi là giống chó quý. Có nhiều loại chó: Chó đại, chó lông xù, chó lông dài, chó cộc đuôi… Loại nào cũng to lớn, tinh khôn và đặc biệt là rất trung thành, biết nghe lời chủ nên được nhiều dân chơi khắp nơi tìm mua về nuôi.

Mận hậu Bắc Hà

Từ tháng giêng âm lịch, cả thung lũng Bắc Hà với diện tích rộng 30km2 nở trắng hoa mận, đất trời Bắc Hà như trong huyền thoại. Qua Cổng trời, người và ngựa cứ bồng bềnh như trôi trong mây trắng. Khác với mận Lạng Sơn khi chín quả mới đỏ, mận hậu Bắc Hà không biến đổi màu vỏ ngoài, quan sát kỹ mới nhận ra lúc thu hái quả mận hơi ngả sang màu vàng nhạt. Trông cứ tưởng quả xanh nhưng khi bổ đôi, ruột quả mận mới phô sắc vàng.

Điều khác biệt giữa mận Bắc Hà với các giống mận khác, có lẽ là độ róc hột. Ngoài ra, vị ngọt của mận hậu làm cho người ăn sau khi nuốt xong miếng cuối khá lâu mà như vẫn còn miếng mận trong miệng. Có lẽ vì thế mà người ta đặt tên nó là mậu hậu.

Rượu ngô Bắc Hà

Rượu ngô Bản Phố hay còn gọi là rượu ngô Bắc Hà là một thứ rượu ngon đặc sản của người Mông ở Bản Phố, cao nguyên Bắc Hà, Lào Cai. Cùng với rượu Táo Mèo và rượu San Lùng, rượu ngô Bản Phố là các danh tửu của Lào Cai. Rượu Bản Phố có màu trong như nước suối, lúc mới uống nghe hương vị thơm nồng, sau đó là cảm giác êm dịu. Rượu ngô nơi đây say lâu nhưng không làm người ta ngu muội mà cảm giác vẫn sảng khoái.

Rượu ngô Bản Phố nấu từ nước lấy từ suối Hang Dế. Rượu ngô Bản Phố hương thơm thì nồng nàn, quyến rũ, uống vào không gắt, không chua. Ngô dùng nấu rượu Bản Phố không phải trồng ở nương rẫy hoặc thung lũng, mà ở trên núi đá cao heo hút, đặc biệt là giống ngô vàng trồng ở xã Lùng Phình (Bắc Hà) cho ra nhiều rượu có hương thơm nồng rất ngon.

Loại ngô này cho bắp chắc, vàng, năng suất không cao, bù lại hạt mềm, bùi và rất giàu dinh dưỡng. Sau khi thu hoạch, ngô được giữ nguyên bắp, phơi khô và bảo quản để nấu rượu dần.

Bí quyết tạo nên sự khác biệt của rượu ngô Bản Phố với các loại rượu khác là lên men bằng bột bông của cây “pa”, còn gọi là cây Hồng Mi. Người H’Mong dùng hạt này đem xay nhỏ như bột rồi trộn với nước rượu đầu và nước sôi, nhào thật nhuyễn, nắm thành quả đặt trên rơm và phơi ở nơi ít nắng, thoáng gió đến khi những quả men khô, chuyển thành màu trắng y như chiếc bánh bao thì mang bỏ vào thúng, rổ để lên gác bếp bảo quản để dùng dần.

Người Mông nơi đây cho rằng uống rượu Bản Phố vào buổi sáng sẽ có thêm sức mạnh, tựa như có một vị thần dũng mãnh hỗ trợ làm việc đồng áng suốt ngày không cảm thấy mệt mỏi. Nếu uống vào buổi tối, cùng với bằng hữu, rượu như có sợi dây vô hình ràng buộc tình yêu thương khăng khít, trong lòng mọi người trào dâng lời hay, ý đẹp, nói lên được những điều mới mẻ, ý nghĩa thấm sâu và hào hứng mà những lúc khác không có rượu chưa nói được

Thịt gừng của người Nùng Dín

Hàng năm, cứ mỗi dịp tết đến, người Nùng Dín lại mổ lợn đón Xuân. Dù lợn to hay bé, mỗi nhà cũng phải chuẩn bị thịt để chế biến nhiều món ăn trong ngày tết. Ngoài món thịt làm nhân bánh thì người Nùng Dín còn làm món thịt gừng ‘tiếng Nùng Dín gọi là Nứt sinh’. Món ăn này rất bình dị, chế biến đơn giản nhưng có hương vị riêng, từ lâu là thức ăn quen thuộc của dân tộc này.

Để làm món thịt gừng, người Nùng Dín tận dụng tất cả các loại xương như xương sống, xương sườn và thủ tươi nguyên không được rửa qua nước đem băm nhỏ, rồi rửa một lượng khá nhiều gừng giã nhỏ vắt bớt nước. Sau đó, trộn tất cả xương băm, gừng, muối với nhau, bóp sao cho thật nhuyễn. Khi bóp người ta còn pha thêm một chút rượu vừa phải để bảo quản và giữ được sự tươi sống của thức ăn. Thịt được cho vào loại chum có men bóng rồi đổ nước (không để cạn nước ở vành chum), giữ nhiệt độ để tránh thức ăn chuyển màu. Sau đó, đậy kín miệng chum bằng tấm ni lông, buộc chặt, khi nào dùng mới lấy ra nấu chín tuỳ theo bữa.

Người Nùng Dín thường ăn món thịt gừng theo hai cách là hấp hoặc nấu. Nếu hấp thì có thể cho thêm một chút nước, hạt tiêu, rau thơm thì món ăn sẽ toả mùi thơm hấp dẫn hơn nhiều. Nếu nấu thì đổ thêm một lượng nước tương xứng với lượng thức ăn đun chín tới, cho gia vị như mì chính, hạt tiêu hoặc rau cần tây. Kể cả người già hay trẻ nhỏ không ăn được xương thì trộn cơm với nước thịt này cũng xuýt xoa ngon miệng. Ai đã từng thưởng thức món ăn Nứt sinh của người Nùng Dín sẽ không quên được hương vị của nó bởi vị ngọt của thịt xương quyện với cái mặn đậm đà của muối, chất cay nóng của gừng già, phảng phất vị thơm của rượu ngô.

Thịt lợn muối

Trong các món ngon được chế biến từ thịt lợn thì thịt lợn muối là một trong những món ngon trong danh mục ẩm thực của đồng bào vùng cao Lào Cai. Cách chế biến món thịt lợn muối hết sức đơn giản với những gia vị có sẵn trong vườn nhà. Gia vị của thịt lợn muối bao gồm các loại lá như lá quế, lá mít, lá trầu không, kèm theo ớt tươi, giềng và rượu cái nếp.

Tất cả các loại lá đều được phơi khô và giã nhỏ, thịt lợn được thái vừa miếng rồi đổ rượu cái ướp cùng muối thật mặn và trộn lẫn các loại lá gia vị khô đã được giã nhỏ sau đó cho thịt vào hũ hoặc lọ để từ một đến hai tuần là có thể sử dụng được. Khi sử dụng thịt lợn muối có thể rang hay nướng tuỳ theo khẩu vị của từng gia đình.

Khi ăn, chúng ta có những cảm giác khác nhau. Có vị cay của giềng và ớt, vị thơm của quế, vị hơi chát của lá mít và lá trầu không. Đồng thời, một vị đặc trưng của thịt lợn muối là vị chua hoà lẫn vị mặn của muối, miếng thịt giòn và rắn chắc. Thịt lợn muối làm giảm đi độ béo và ngấy của mỡ. Khi ăn, chúng ta có thể lấy lại cảm giác về vị giác khi đã ăn quá nhiều đồ ăn khác mà không có cảm giác ngon.

Thịt lợn muối là món ăn dân dã của người dân vùng cao đặc biệt là người Tày ở Bảo Yên. Mặc dù là món ăn bình dị nhưng cũng được người dân vùng cao tiếp đãi khách quý như một món ăn truyền thống và bộc lộ tình cảm chân thành của đồng bào đối với khách.

Nấm chân chim ở chợ Bắc Hà

Nấm còn gọi là nấm phiến chẻ, là một sản phẩm độc đáo chỉ có ở Bắc Hà (Lào Cai), không những có giá trị dinh dưỡng cao mà còn là một loại dược liệu quý. Vị ngọt của nấm khiến người ăn khó quên được hương vị của vùng cao này. Hình thái ngoài của nấm cũng dễ nhận biết, không có cuống, mũ dạng quạt – vỏ hến, đường kính từ 1 đến 3 cm, phủ lớp lông mịn mầu trắng xám, mép mũ hơi cuộn vào trong.

Thịt nấm mầu trắng, mặt dưới là những phiến nấm, khi non mầu trắng, khi già mầu hồng thịt. Những gùi nấm nặng trĩu được các thiếu nữ Mông mang đến chợ bán thành một dãy riêng. Nấm được để trong gùi hoặc bày trên các tấm vải, trải trên thảm cỏ. Chẳng cần cân đo chính xác, các cô gái cứ đong từng bát đầy, bán với giá bình dân: hai nghìn đồng một bát.

So với các loại rau xanh khác ở chợ, nấm chân chim bao giờ cũng được bán hết nhanh nhất. Nấm mua về đem xào hoặc nấu canh với thịt. Thưởng thức hương vị ngọt ngào của nấm, người ăn sẽ có kỷ niệm khó quên về Bắc Hà.

Ngoài công dụng làm thực phẩm, nấm chân chim còn có nhiều lợi ích khác, được liệt vào loại dược liệu quý, là đối tượng nghiên cứu thực nghiệm về sinh học, như sinh lý học và di truyền học.

 

Liên hệ với chúng tôi

Nguồn Internet

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *